Lịch sử Hôn nhân cùng giới

Đối với nghĩa rộng hơn của chủ đề này, xem Lịch sử đồng tính luyến ái.

Thời cổ đại

Một ý kiến liên quan đến hôn nhân đồng tính xuất hiện trong Sifra, được viết vào thế kỷ thứ 3 CN. Sách Lêvi cấm quan hệ đồng tính luyến ái, và người Hebrew được cảnh báo là không được "làm theo những việc làm của xứ Ai Cập hay những việc làm của xứ Canaan" (Lê-vi Ký 18:22, 20:13). Sifra giải thích rõ những "hành vi" không rõ ràng này là gì và chúng bao gồm hôn nhân cùng giới: "Một người đàn ông kết hôn với một người đàn ông và phụ nữ kết hôn với phụ nữ, một người đàn ông kết hôn với một người phụ nữ và con gái của cô ấy, và một người phụ nữ kết hôn với hai người đàn ông."[33]

Điều được cho là lần đề cập lịch sử đầu tiên về việc thực hiện hôn nhân cùng giới xảy ra trong thời kỳ đầu của Đế chế La Mã theo nhà sử học còn gây tranh luận John Boswell.[34][35] Những điều này thường được nhắc đến với thái độ chỉ trích hoặc châm biếm.[36]

Hoàng đế trẻ La Mã Elagabalus gọi người lái ngựa, một nô lệ tóc vàng đến từ Caria tên là Hierocles, là chồng của mình.[37] Ông cũng kết hôn với một vận động viên tên là Zoticus trong một buổi lễ xa hoa công khai ở Roma giữa sự hân hoan của nhân dân.[38][39][40]

Theo Craig A. Williams, một số người La Mã vào đầu thế kỷ thứ nhất rõ ràng đã tham gia vào các nghi lễ chính thức trong đó hai người đàn ông kết hôn. Những cuộc hôn nhân này được coi là không điển hình: Williams viết rằng "một cuộc hôn nhân giữa hai 'người đàn ông' à không thể tưởng tượng được; nếu hai người đàn ông kết hôn với nhau, một trong số họ phải là 'người phụ nữ.'"[41]

Hoàng đế La Mã đầu tiên kết hôn với một người đàn ông Nero, người được cho là đã kết hôn với hai người đàn ông khác trước đó.[42] Sau đó, với tư cách là một chú rể, Nero kết hôn với Sporus, một người đàn ông trẻ tuổi, để thay thế người vợ lẽ thiếu niên Poppaea Sabina anh ta đã giết,[43][44] lễ cưới diễn ra công khai với đầy đủ các nghi thức hôn lễ, sau đó Sporus buộc phải đóng giả làm người vợ lẽ mà Nero đã giết và hành động như thể họ thực sự đã kết hôn.[43] Một người bạn sau đó đã đưa "cô dâu"đi theo quy định của pháp luật. Đám cưới được thực hiện ở cả Hy Lạp và La Mã trong những buổi lễ công khai xa hoa.[45]

Conubium (Quyền kết hôn hợp pháp) chỉ tồn tại giữa một công dân Romanus và một công dân Romana (nghĩa là giữa một công dân La Mã nam và một công dân La Mã nữ), vì vậy cuộc hôn nhân giữa hai nam giới La Mã (hoặc với một nô lệ) sẽ không có địa vị pháp lý trong luật La Mã (có lẽ trừ ra ý muốn độc đoán của hoàng đế trong hai trường hợp nói trên).[46] Hơn nữa, theo Susan Treggiari, "matrimonium (từ Latin của matrimony - hôn nhân) lúc đó là một thể chế liên quan đến người mẹ, mater. Ý nghĩa ẩn trong từ này là một người đàn ông kết hôn với một người phụ nữ, trong matrimonium ducere, để anh ta có thể có con với cô ấy."[47]

Vào năm 342 sau Công nguyên, các hoàng đế Cơ đốc giáo Constantius IIConstans đã ban hành một luật trong Bộ luật Theodosian (C. Th. 9.7.3) cấm hôn nhân cùng giới ở La Mã và ra lệnh xử tử những người đã kết hôn cùng giới.[48] Giáo sư Fontaine của Khoa Kinh điển Đại học Cornell đã chỉ ra rằng không có quy định về hôn nhân đồng tính trong Luật La Mã, và văn bản từ năm 342 sau Công nguyên đã bị sửa đổi, "kết hôn với một người phụ nữ" có thể là "lên giường một cách đáng ghê tởm với một người đàn ông" như một sự lên án hành vi đồng tính luyến ái giữa những người đàn ông.[49]

Boxer Codex, ghi chép năm 1590, ghi lại sự bình thường và chấp nhận hôn nhân cùng giới trong các nền văn hóa bản địa của Philippines trước khi thành thuộc địa.[50] Năm 1834, Anne Lister kết hôn với Ann Walker trước khi hợp pháp hóa ở Anh.[51]

Hiện đại

Một cặp đôi mới cưới ở Minnesota ngay sau khi hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới ở Hoa Kỳ

Cặp đôi cùng giới đầu tiên kết hôn hợp pháp trong thời hiện đại là Michael McConnell và Jack Baker vào năm 1971, tại Quận Hennepin, Minnesota.[52] Các nhà sử học khác nhau theo dõi sự khởi đầu của các phong trào hiện đại ủng hộ hôn nhân cùng giới ở khắp các nơi từ khoảng những năm 1970 đến những năm 1990. Tại Hoa Kỳ hôn nhân cùng giới đã trở thành một yêu cầu chính thức của phong trào bảo vệ quyền của người đồng tính sau cuộc Hành trình Quốc gia lần thứ hai về Quyền của Đồng tính nữ và Đồng tính nam ở Washington vào năm 1987.[53][54]

Năm 1989, Đan Mạch trở thành quốc gia đầu tiên công nhận mối quan hệ hợp pháp cho các cặp cùng giới, hợp thức hóa quan hệ kết đôi có đăng ký, mang lại cho những người có quan hệ cùng giới "hầu hết các quyền của những người kết hôn khác giới, nhưng không có quyền nhận con nuôi hoặc giành quyền nuôi con chung đối với đứa con".[55] Năm 2001, Hà Lan trở thành quốc gia đầu tiên chính thức hóa hôn nhân cùng giới theo luật.[7] Kể từ đó, hôn nhân cùng giới cũng đã được pháp luật công nhận ở 33 những quốc gia khác, bao gồm hầu hết các nước ở châu MỹTây Âu. Tuy nhiên, sự hợp pháp hóa diễn ra cũng không đồng đều — Nam Phi là quốc gia duy nhất ở châu Phi áp dụng; Đài Loan là quốc gia duy nhất ở châu Á.[56]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hôn nhân cùng giới http://www.diariandorra.ad/noticies/nacional/2013/... http://derstandard.at/1381370702708/Mehrheit-will-... http://www.wienerzeitung.at/nachrichten/oesterreic... http://www.essentialvision.com.au/wp-content/uploa... http://www.smh.com.au/federal-politics/political-n... http://www.smh.com.au/nsw/domestic-violence-a-sile... http://www.theage.com.au/federal-politics/politica... http://www.abc.net.au/news/2015-06-03/laurie-bigot... http://www.naturalmarriage.org.au/news-posts/over-... http://www.psychology.org.au/Assets/Files/LGBT-Fam...